Đừng cố SPAM, sẽ cấm vĩnh viễn ngay và luôn

Toàn quốc Tổng quan về khảo cổ, lịch sử - văn hóa Cù Lao Chàm

Du Lịch Cù Lao Chàm

Thành viên cấp 1
Tham gia
20/4/23
Bài viết
14
Thích
0
Điểm
1
#1
Cù Lao Chàm - nổi tiếng với nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử: Sanfu-Fù law, Cham-pu-lau, Pulociam, Pulaucham, Polochiam Pello, Chiêm Bất Lao, Tiêm Bích La... Bao gồm nhiều hòn đảo lớn nhỏ: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn La, Hòn Khô, Hòn Tai và Hòn Ông,... nằm bên bờ Biển Đông, quần tụ thành hình cánh cung quay về hướng đất liền, có tọa độ địa lý 15015’20”¬- 15015’15” vĩ Bắc; 108023’10” kinh Đông, chiếm khoảng không gian chừng 15,5km2, cách bờ biển Cửa Đại 15 km, cách trung tâm Khu phố cổ Hội An 19km về hướng Đông - Đông Bắc.
Đã tự bao đời, Cù Lao Chàm như những người lính hoa tiêu khổng lồ - như bức bình phong che chắn, án giữ cho Cửa Đại (Đại Chiêm hải khẩu) của Đô thị thương cảng Hội An. Trên cụm đảo, đặc biệt có Hòn Lao lớn nhất, với hệ thống núi phát triển theo hình cung, độ cao nhất 517m, sườn phía Đông có đá tảng dốc đứng, hiểm trở, bao bọc, sườn Tây dốc thoải, nhiều bãi cát bồi ven biển, trong đó Bãi Ông, Bãi Làng, Bãi Hương có dân cư sinh sống lập thành xã đảo Tân Hiệp, thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay, gồm hơn 2.000 người, phân bố trên 4 thôn(Bãi Ông, Xóm Cấm, Bãi Làng, Bãi Hương). Cư dân trên đảo xưa kia sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản, rất ít người làm nghề nông hoặc buôn bán, hiện nay phần lớn dân cư ở đây đã chuyển sang nghề làm dịch vụ du lịch.
Kết quả nghiên cứu khảo cổ học - lịch sử những năm gần đây của các nhà khoa học trong nước và quốc tế tuy chưa đầy đủ nhưng cũng cho chúng ta hình dung, khái quát được diện mạo, bề dày, diễn trình lịch sử - văn hóa về Cù Lao Chàm.
Vào khoảng thiên niên kỷ II trước Công nguyên: Qua Di chỉ Bãi Ông, được phát hiện, thám sát khảo cổ năm 1999 và khai quật năm 2000, với khá nhiều hiện vật gốm thô (đất nung) và đáng chú ý là hiện vật đá, công cụ mài như: Rìu tứ giác ngắn, rìu có vai, lưỡi ghè, bàn mài nhiều loại; Công cụ từ chất liệu cuội như: Hòn kê, chày, hòn đập, bàn nghiền, dụng cụ miết gốm, chì lưới... hoặc răng hàm cá, kim bằng xương, mảnh nhuyễn thể, hạt cây, than tro... Chúng được nằm trong tầng văn hóa ổn định, dày khoảng 60cm và có lớp trên là tầng văn hóa: Gốm sứ, bán sứ, sành, gốm thô của cư dân từ sau thế kỷ IX - X. Từ hiện vật, kết hợp xem xét kết cấu địa tầng, tầng văn hóa, bằng phương pháp tham chiếu, đối sánh và phương pháp giám định C14, AMS mà các nhà khoa học đã khẳng định: Đây là di tích của cư dân bản địa thời Tiền sử hay Tiền Sa Huỳnh cách ngày nay khoảng hơn 3.000 - 3.500 năm (tức vào khoảng thiên niên kỷ II - trước Công nguyên) trên đảo Cù Lao Chàm, đồng thời qua Di tích Bãi Ông cũng cho thấy mối liên hệ xa - gần; ngang - dọc của nhóm cư dân sống ở khu vực duyên hải, đảo ven bờ miền Trung Việt Nam thời Tiền sử. Nó có ý nghĩa quan trọng liên quan đến thời Tiền sử của cư dân xứ Quảng và cả chuỗi Nam Đảo ở Đông Nam Á.

Di chỉ khảo cổ học Bãi Ông

Trải qua nhiều thế hệ dân cư tồn lưu và phát triển, trên một diện tích không rộng lắm, người không đông, nhưng các lớp cư dân nơi đây đã tạo dựng và vẫn bảo tồn được 22 công trình kiến trúc: đình, lăng, miếu, chùa, giếng (cổ) có niên đại từ đầu thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Tuy quy mô kiến trúc nhỏ hẹp nhưng lại rất độc đáo, riêng biệt trên từng chi tiết thể hiện, kiểu thức kiến trúc và ý nghĩa, nội dung nhân văn của một vùng đảo. Hơn nữa, nhiều di tích tín ngưỡng thể hiện rất rõ sự chuyển tiếp tín ngưỡng từ cư dân Champa sang cư dân Việt mang đặc trưng, yếu tố hải đảo khá rõ nét. Đặc biệt dọc theo các sườn núi của Hòn Lao nhìn xuống các bãi cát có nhiều điểm “đá xếp” thành hệ thống còn được bảo tồn khá tốt, khá điển hình ở khu vực miền Trung Việt Nam vào thời kỳ của cư dân Champa với mục đích sử dụng nguồn nước tự nhiên cho nhu cầu của cuộc sống, gồm hai hình thức hệ thống liên hoàn khác nhau:
1/ Hệ thống “đá xếp” theo từng bậc, từ thượng nguồn xuống: lấy nước cúng tế - nước ăn, uống - nước tắm, giặt, sinh hoạt khác - tưới cho ruộng lúa trước khi chảy ra biển.
2/ Hệ “đá xếp” tạo thành điểm cư trú (làm nhà), kết hợp nương rẫy, làm ruộng khô (Xích điền), trồng hoa màu, cây ăn trái... hoặc Nà (ruộng bậc thang có nước) và ruộng trên những bãi bằng, thường xuyên có nước để trồng lúa nước (Bạch điền).
Nhìn trên góc độ môi trường sinh thái, Cù Lao Chàm có khí hậu hải dương điều hòa, nền nhiệt độ khá đều trong các mùa, trung bình 20 - 240C mùa đông ấm áp, mùa hè mát dịu, ít bị khô nóng bởi gió phơn Tây Nam. Lượng mưa tương đối ít và điều hòa (2.000 - 2.400 mm/năm), độ ẩm trung bình 80 - 90%, không có sương mù và hầu như được mặt trời chiếu sáng quanh năm. Nhờ vào điều kiện thuận lợi của một vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa hải dương nên hệ động thực vật trên đảo khá phong phú, hợp thành sức sống bền vững, mãnh liệt của thế giới vạn vật nơi đây, giúp cho con người có tiềm năng để khai thác, mưu sinh. Rừng Cù Lao Chàm có nhiều loại lâm sản: gỗ quý (gõ, kiền kiền, dẻ, chua...), mây, song, dâu, sim...; chim, thú (khỉ, trăn, thỏ...); dược liệu (dò dẻ, mã tiền, sơn máu, ổi tím, lá ngáy, ngũ gia bì , thanh hao...). Trên Hòn Lao, tại các Bãi Ông, Bãi Bìm, Bãi Chồng, Bãi Xếp bờ biển thoai thoải, sóng nhẹ, nước trong tạo thành những bãi tắm rất lý tưởng. Quanh các đảo từ độ sâu 1 - 20m nước xanh biếc, soi rõ từng cụm san hô đủ sắc màu rất tuyệt vời và khá dồi dào hải sản với nhiều loại cá (chim, thu, ngừ, nục, phèn, nhám...), tôm hùm, tôm càng xanh, cua bể, mực, sò, ốc, hải sâm, ngọc trai, đồi mồi... Đặc biệt, trong các hang đảo thiên nhiên đã dâng tặng cho cụm đảo này một nguồn tài nguyên vô tận và vô cùng giá trị đó là yến sào, tổ của một loại chim yến có hàm lượng dinh dưỡng siêu việt, có tác dụng bồi bổ sinh lực, chữa bệnh rất tốt mà nhân dân địa phương đã biết khai thác và biến thành mặt hàng xuất khẩu nổi tiếng từ xa xưa.
Nguồn: Thế giới di sản
 

Đối tác

Top